Để phòng, chống thiên tai hiệu quả, xây dựng một xã hội an toàn trước thiên tai, đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải vào cuộc và luôn nêu cao tinh thần chủ động hơn, kịp thời hơn, hiệu quả hơn, để ổn định, bảo vệ phát triển sản xuất, không để người dân nào rơi vào cảnh màn trời chiếu đất do thiên tai, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Theo nhận định của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế, Việt Nam là một trong 10 nước bị thiên tai đe dọa lớn nhất. Vì vậy, nếu Việt Nam không chủ động phòng chống thì thiệt hại sẽ lớn.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng và giữ nước của dân tộc ta, ngoài việc chiến đấu với giặc ngoại xâm thì ông cha ta còn phải chiến đấu với thiên tai. Điều quan trọng trong phòng, chống thiên tai là không được chủ quan, cả hệ thống chính trị phải chung tay phòng chống thiên tai một cách chủ động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, luôn nêu cao tinh thần chủ động hơn, kịp thời hơn, hiệu quả hơn, để ổn định, bảo vệ phát triển sản xuất, không để người dân nào rơi vào cảnh màn trời chiếu đất do thiên tai, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Một hình ảnh thể hiện vận dụng phương châm “4 tại chỗ” trong phòng, chống bão lũ tại Hà Nội (Ảnh: PV)
Thời gian qua, công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn đã được cả hệ thống chính trị quan tâm, vận dụng linh hoạt “phương châm 4 tại chỗ”.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong quan trắc, dự báo, theo dõi, giám sát công trình, khu vực trọng điểm xung yếu thiên tai bước đầu đã được quan tâm (trên 1.000 trạm đo mưa tự động, 51 trạm cảnh báo đa thiên tai; 78 vị trí giám sát camera theo dõi trọng điểm đê điều và nhiều hồ chứa nước lớn đã được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn)…. Việt Nam cũng đã sẵn sàng, làm tốt việc ứng cứu thành công, hỗ trợ các nước trong thiên tai, như sự cố vỡ đập Attapeu của Lào, lực lượng Quân khu 5 đã tham gia cứu nhiều người dân nước bạn, hay việc cứu 22 ngư dân Philippines trên biển…
Bên cạnh đó, cũng cần khắc phục một số tồn tại như: Thiệt hại do thiên tai còn rất lớn. Năm nào, cũng có nhiều người chết do sạt lở đất và sau lũ. Khả năng chống chịu của cơ sở hạ tầng, nhất là công trình phòng chống thiên tai còn hạn chế (đê biển mới được thiết kế chống gió bão cấp 9, cấp 10, trong khi bão cấp 10, cấp 12 thường xuyên xuất hiện; nhiều khu vực dân cư nhà ở chưa bảo đảm an toàn; đê điều, hồ đập xuống cấp chưa được đầu tư kịp thời, khu neo đậu tàu thuyền còn thiếu; hệ thống tiêu thoát nước đô thị không đáp ứng được yêu cầu nên hàng loạt đô thị bị úng ngập nghiêm trọng khi mưa lớn; hệ thống giao thông thường xuyên bị sạt lở, hư hỏng khi có mưa, lũ lớn,…).
Ngoài ra, mặc dù có nhiều cố gắng trong công tác dự báo, cảnh báo thiên tai với nhiều tiến bộ nhưng năng lực quan trắc, giám sát, dự báo, cảnh báo vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội, chưa theo kịp với diễn biến thiên tai ngày càng phức tạp, bất thường do biến đổi khí hậu.
Thêm nữa, việc phòng ngừa thiên tai còn chưa được quan tâm đúng mức trong các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của nhiều ngành, nhiều địa phương, dẫn đến những hệ lụy làm gia tăng rủi ro thiên tai như bố trí dân cư vào vùng nguy cơ sạt lở, lũ quét; xây dựng công trình giao thông chưa phù hợp cản lũ; xây dựng, công trình không tính đến an toàn cho dân cư. Có địa phương xây dựng hồ trên đỉnh đồi, bị vỡ do mưa lớn làm thiệt hại về người và tài sản.
Về công tác khắc phục hậu quả thiên tai, nhiều đợt thiên tai gây thiệt hại lớn xảy ra 1-2 tháng vẫn chưa được trình xem xét hỗ trợ gây bức xúc cho địa phương. Có địa phương phân bổ nguồn lực được hỗ trợ không kịp thời, để 6 tháng đến gần một năm mới phân bổ hết…
Bản thân các cơ quan quản lý cũng chưa phát huy được vai trò của cộng đồng địa phương trong việc giúp người dân nâng cao khả năng sẵn sàng ứng phó thiên tai. Thực tế cho thấy, cộng đồng là nơi hiểu rõ nhất cách sống chung với thiên tai bằng những kinh nghiệm và kiến thức của người dân, những kinh nghiệm đã chứng tỏ hiệu quả trong việc giảm nhẹ tổn thất do thiên tai gây ra.
Một số thách thức quan trọng trong phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn ở nước ta hiện nay gồm: Quá trình phát triển kinh tế xã hội chưa tính đủ tác động của thiên tai đối với một số ngành, lĩnh vực, địa phương đã làm gia tăng rủi ro thiên tai, giảm tính bền vững (nhiều công trình hạ tầng khi thiết kế, xây dựng chưa được tính toán đầy đủ yếu tố thiên tai; khai thác cát quá mức, xây dựng công trình nhà cửa ven sông, ven biển gây sạt lở; việc khai thác nước ngầm quá mức gây sụt lún đất, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước ngầm ở ĐBSCL đã đến mức báo động).
Yêu cầu của xã hội an toàn hơn trước thiên tai ngày một cao hơn. Dân số, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa,… đặt ra những thách thức, đòi hỏi công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn phải ngày càng tốt hơn, quyết liệt hơn.
Tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu đã làm cho thiên tai ngày càng phức tạp, bất thường, cực đoan, không theo quy luật. Đây là thách thức lớn đối với công tác dự báo, cũng như phòng chống thiên tai, đặc biệt là mưa lũ cục bộ, lũ quét, sạt lở đất, triều cường…
Một số bộ, ngành, địa phương ý thức phòng chống thiên tai còn kém khi mà bất cứ vùng nào cũng có thể có thiên tai trong thời tiết biến đổi cực đoan như hiện nay.
Do đó, đối với công tác phòng chống thiên tai hiện nay là cần “xây dựng xã hội phát triển an toàn trước thiên tai” theo hướng quản lý rủi ro, phòng ngừa là chính./.
Nguồn: Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam
Vụ TTCĐ tổng hợp